Số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam cho biết, 6
tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu cá tra ba sa đạt 854 triệu USD, tăng 3%
so với cùng kỳ năm trước.
Thị trường EU, Mỹ, Asean, Trung Quốc mở rộng (bao gồm
Hồng Kông), Mehico vẫn là những thị trường
chủ lực của ngành cá da trơn Việt Nam.

Nguồn: Số liệu Hải quan Việt Nam/Vasep
Tuy nhiên, khủng hoảng nợ ở khu vực EU đã ảnh hưởng nặng đến hoạt động xuất khẩu
của ngành này. Cụ thể, ngoại trừ tháng 2 – tháng Tết có kim ngạch xuất khẩu tra
– ba sa sang EU là tăng trưởng (37,4%), 5 tháng còn lại kim ngạch xuất khẩu giảm
mạnh so với cùng kỳ năm trước (giảm từ -33,4% đến - 12,5%). Điều này ít nhiều đặc biệt ảnh hưởng đến các
doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra lớn trong ngành.
Xét 5 doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu tra- basa lớn nhất năm 2011 gồm: CTCP
Vĩnh Hoàn (MCK:
VHC), CTCP Hùng Vương (MCK:
HVG), CTCP Xuất nhập khẩu Thủy sản
An Giag (MCK:
AGF), CTCP Việt An (MCK:
AVF) và CTCP Nam Việt (MCK:
ANV) ta thấy:
Quý II/2012, bình quân doanh thu thuần bán hàng của 5 doanh nghiệp trên tăng
0,3%, trong đó AGF và VHC, ANV tăng, còn lại HVG, AVG là giảm so với quý
II/2011.
Tuy nhiên, xét về lợi nhuận gộp, biên lợi nhuận gộp/doanh thu thuần chỉ có ANV
là tăng, 4 doanh nghiệp còn lại giảm mạnh so với quý II/2011.
Các doanh nghiệp cho biết: sản lượng xuất khẩu giảm (VHC, HVG); giá bán giảm bao
gồm giảm để cạnh tranh với doanh nghiệp khác trong cùng ngành nghề (
IDI, VHC,
AVF, AGF) đã làm doanh thu bán hàng
trong quý II/2012 giảm so với quý II/2011.
Thêm vào đó, giá thành nuôi cá tra cao - chi phí nuôi trồng và chế biến cá tra
tăng, nên đã làm giảm biên lợi nhuận gộp/doanh thu thuần của hầu hết các doanh
nghiệp được thống kê.
Nhưng kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành giảm sút không chỉ do
khó khăn ở đầu ra, và đầu vào, mà còn chịu ảnh hưởng của tỷ giá dù cho tỷ giá
VND/USD ổn định hay VND/Euro giảm là điều mong muốn của nhiều doanh nghiệp và
người dân Việt Nam.
Nguồn: Báo cáo tài chính hợp nhất, riêng lẻ của các doanh nghiệp quý II/2012
Bởi, đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, tỷ giá ổn định sẽ không làm cho lợi
nhuận của doanh nghiệp tăng do không được hưởng lợi từ chênh lệch tỷ giá. Thống
kê và giải trình của hầu hết các doanh nghiệp trong ngành cho thấy các doanh
nghiệp này bị tổn thất khá nặng do doanh thu tài chính giảm mạnh – mà chủ yếu
là khoản lãi từ chênh lệch tỷ giá giảm.
Ngoài các yếu tố trên, chi phí lương tăng, doanh nghiệp chủ động mở rộng vùng
nuôi cũng ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh trong kỳ của các doanh nghiệp này.
Rõ ràng, nếu tình hình EU không khả quan hơn, các doanh nghiệp trong ngành hoặc
sẽ chấp nhận thu hẹp sản xuất, hoặc phải tìm kiếm thị trường mới.
Đồng thời, với
những khủng hoảng trong nội bộ ngành – cuộc cạnh tranh xuống đáy “giảm giá để cạnh
tranh với doanh nghiệp cùng ngành khác”, giá thức ăn và con giống tăng, nếu
không có biện pháp “nội hóa” những tác động tiêu cực này, biên lợi nhuận gộp của
ngành sẽ tiếp tục giảm là điều khó tránh khỏi.
Q. Nguyễn